Thứ Ba, 3 tháng 6, 2008

192 CHÀO CỜ VIỆT NAM CỘNG HOÀ

CHÀO CỜ VIỆT NAM CỘNG HOÀ

ĐÀ LẠT TRƯỜNG TÔI

191 A RAP XỨ SỞ CỦA CÁC NHÀTIÊN TRI







New Page 1







SAUDI  ARABIA 
TRÊN CÁT DƯỚI ĐÁ


tka23


 


 Xứ
A Rập là môt bán đảo rộng 2,2 triệu cây số vuông, ba phía là biển, ở giữa
là một cao nguyên mênh mông trên cát dưới đá
, cháy khô dưới ánh
nắng chang chang, đi hàng chục hàng trăm cây số mới gặp một giếng nước,
chung quanh có ít cây chà là  và vài cái lều của bọn người du mục. Chỉ ở
bờ biển mới thấy ruộng rẫy. Hai miền phì nhiêu nhất là miền



  
Yemen ở phía Nam trên
cái mỏm, một bên là Hồng Hải (Mer Rouge), một bên là vịnh Aden, và miền
Syrie ở phía Bắc, trên bờ Địa Trung Hải. ân cư miền
Yemen rất đông đúc và
tăng lên rất mau, mà diện tích trồng trọt được thì có hạn, kỹ nghệ cùng
thương mãi tới dầu thế kỷ XX vẫn còn thấp kém nên miền đó luôn luôn bị nạn
nhân mãn.



    Dân chúng
nếu vượt biển để qua miền Soudan thì gặp một xứ còn khô khan, hoang dã hơn
xứ A Rập nữa
, sống không nổi; mà cũng không thể ngược theo bờ biển
Hồng Hải vì bị các dân tộc khác chận đường, nhất định không cho nhập cảnh,
nên họ phải dắt díu nhau di cư vào giữa bán đảo, tới miền Nedjd, miền
Quasim, miền Hamad để tìm cách sinh nhai.         



       Thành
thử trong hàng chục thế kỷ, có những luồng sóng người cuồn cuộn từ phương
Nam tiến lên phương Bắc, rồi phân tán trong sa mạc
.        




     Nhưng sa mạc cháy khô làm sao
nuôi nổi những bọn người di cư mỗi ngày một đông đó? Họ phải chém giết lẫn
nhau đẻ sống, để chiếm một giếng nước, mươi gốc chà là và vài mẫu đồng cỏ.
Khắp thế giới không đâu đời sống cực khổ, gay go như ở đây.
Phải chiến đấu suốt đời, nên kẻ nào sống sót được
cũng là những chiến sĩ gan dạ, rất giỏi chịu cực, chỉ có một bầu nước và
một gói chà là, cũng đủ sống ba bốn ngày.


      Nhưng khi người ta đã quen với
đời sống rồi thì  người ta thấy yêu cái cảnh sa mạc hơn là người nông dân
yêu đồng ruộng. Một nhà tâm lý nào đó đã nhận xét đúng:
cảnh vật càng khô khan, đời sống càng cực khổ bao nhiêu, người ta càng
quyến luyến với quê hương bấy nhiêu
.



     Sống giữa sa mạc, người A Rập mê
những cảnh hoàng hôn rực rỡ, những cảnh cát bụi mịt trời, những cây chà là
xanh mướt bên bờ nước, nhất là sau những cơn nắng cháy da, mặt trời đã lặn,
gió mát hiu hiu, nằm trên cát, bên cạnh con lạc đà, gối đầu lên cánh tay 
mà ngắm những ngôi sao lấp lánh trên nên trời thăm thẳm, hoặc nhièn bóng
trăng xanh dịu trải lên những động cát thoai thoải, trong một cảnh vô biên,
tịch mịch, thì lòng họ rung lên một điệu trầm trầm, họ nhớ lại những thời
oanh liệt, mà muốn ca ngợi công lao tổ tiên; hoặc
suy nghĩ về cái mênh mông huyền bí của vũ trụ, do đó họ thành một thi sĩ
hoặc  một nhà tu hành.


   Tóm lại, sa mạc đã tạo ra ba hạng
người:



     hạng chiến sĩ coi cái chết nhẹ
như không;



     hạng thi sĩ thích một cuộc đời
phóng túng;



     và hạng tu sĩ kính ngưỡng Thượng
Đế, muốn hiểu cái bí mật của tương lai.



    Người A Rập tự hào rằng đã tặng
cho nhân  loại bốn  vạn người tiên tri, đã để lại cho chúng ta vô số
những  lời sấm truyền, mà lịch sử cũng chứng thực rằng  ít gì  cũng có
trên trăm nhà tiên tri sinh trên bãi sa mạc A Rập


 Các nhà tiên tri:


 



1) Mahomet (570-632)



 





    Nhà tiên tri nổi danh nhất, ảnh
hưởng lớn nhất đến dân tộc A Rập là Mahomet (570-632) (còn viết là
Mahound, Mohammed, Muhammad)



 





    Chẳng những ông
là một nhà tiên tri mà còn là một thi sĩ, một chiến sĩ nữa. Ông ấp ủ tất
cả những hoài bão của dân tộc A Rập và có đủ tài, chí để thực hiện những
hoài bão đó, nên lập nên công nghiêp rất lớn cho nòi giống.


   Hồi trẻ nghèo, ông phải làm hướng
đội cho các thương đôi qua sa mạc, đi khắp nơi này nơi khác, tiếp xúc với
mọi giống người. Ông thấy người A Rập chia rẽ, tranh giành nhau, cướp bóc
nhau mà đau lòng; nuôi cái mộng một ngày kia quy tụ họ được, thống nhất họ
được để tạo nên một quốc gia mạnh mẽ.


    Năm 25 tuổi, ông vô núi Hira, gần
thành Mecque trầm tư trong  một thời gian, như Đức Phật duới gốc Bồ đề, và
lần lần ánh sáng hiện ra trong óc ông. Ông nghĩ ra
rằng  nếu muốn thống nhất  dân tộc thì phải tạo cho họ một tôn giáo chung
-hồi đó người A Rập còn theo đạo đa thần, mỗi bộ lạc thờ một vị thần
riêng- mà muốn cho tôn giáo được mọi người theo thì phải dùng võ lực,
chiến thắng tất cả những bộ lạc khác
.


      Tìm được "chánh đạo" rồi, ông
hạ san , tự xưng là nhà tiên tri, đem truyền bá tư tưởng của mình trong số
người thân, rồi trong một nhóm môn đệ gồm ba, bốn chục người. Nhờ hồi
trước tiếp xúc với những nguời theo đạo Đa Tà và Do Thái, ông hiểu được ít
nhiều về hai đạo đó, phỏng theo mà lập nên đạo Hồi. Giáo điều căn bản tóm
tắt trong câu: " Chỉ có một đức Chúa duy nhất
là Allah và một tiên tri của ngài là Mahomet
". Sống thì
phải phục tùng ý muốn của Chúa. Sự phục tùng ấy
gọi là
islam
, chết thì phải theo
sự phán quyết của Chúa. Đại loại những lời khuyên
răn các tín đồ tức là
mulsuman
,
cũng như các cấm điều trong các tôn giáo khác. Khác hẳn Đạo Phật là điều
này: Chiến tranh nào có mục đích truyền bá
"chính đạo" sẽ là thánh chiến
. Bất kỳ ai, có những kẻ đui
và cụt tay đều phải nhập ngũ để chiến đấu vì Chúa.



     Chỉ những kẻ điên, con nít và
đàn bà là được ở nhà, nhưng có bổn phận phải tố cáo, phải giết những kẻ
đào ngũ. Khẩu hiệu của tín đố là: "Thiên đàng
ở trước mặt, mà địa ngục ở sau lưng
". Một lần đứng trước
môt nhóm đồ đệ khoảng bốn chục người, Mahomet tuyên bố:


- Từ nay ta sẽ sống và chết với các
ngươi, máu của ngươi là máu của ta, các người thua là ta thua, mà các
ngươi thắng là ta thắng.


Một người trong đám hỏi:


- Nhưng nếu chúng tôi bị giết vì ngài
thì được phần thưởng nào?


Mahomet đáp liền:


- Được lên Thiên Đàng.


     Những cuộc đàm thoại như vậy
được tín đồ ghi chép lại Thánh kinh Coran, lời rất trau chuốt, hoa mỹ vì
Mahomet có tâm hồn thi sĩ. Ngoài những đoạn giảng về đức tin, kinh còn dạy
về khoa học, vệ sinh, luật pháp. Các sử
gia hiện nay phải nhận rằng thời Trung cổ, khắp thế giới không có bộ luật
nào đầy đủ chi tiết và thực tế như kinh Coran.




Khi
đã có một số tín đồ cảm tử theo, ông bắt đầu dùng tài cầm quân của lình để
đánh cướp các thương đội, gây lực lượng để xâm chiếm các bộ lạc, bắt họ
quy phục, theo đạo Hồi. Lần này ông chiếm được Médine, Mecque, và khi lâm
chung, hồi 62 tuổi, ông làm chủ toàn xứ A Rập. Quốc gia A Rập thành lập,
và từ đó mỗi ngày một mạnh.


 


 


 


 


Cái chết của Mohamet


2) Omar






Đế quốc A Rập thời toàn thịnh (750)


       
Sau Mahomet, Omar tiếp tục công việc xâm
lăng để truyền đạo, và tới thế kỷ thứ VIII thì đế quốc A Rập toàn thịnh
,
rộng hơn cả đế quốc Hy lạp hồi xưa: phía đông lan qua Ba Tư, và một phần 
Ấn Độ, phía tây gồm một vùng mênh mông từ Ai Cập tới bán đảo Y Pha Nho,
phía bắc giáp Caucase và Tây Bá Lợi Á, bao nhiêu đảo lớn nhỏ trong Địa
Trung Hải đều thuộc A Rập cả. Họ tới đâu thắng đấy, bắt kẻ địch phải lựa
một trong hai đường: hoặc thừa
nhận Chúa Allah của họ, và phục tùng họ, hoặc chết
.


       Họ dám
sai sứ qua Trung Hoa buộc hoàng đế Trung hoa theo đạo họ (khoảng 705-707)
nhưng vì xa xôi quá, họ không dám tiến quân. Mãi tới năm 732, họ sắp tới
sông Loire trên đất Gaule thì dân tộc Franc  dưới sự chỉ huy của Charles
Martel, đánh cho đại bại ở gần
Poitiers. Trận đó dã
cứu châu Âu khỏi bị A Rập đô hộ, và cứu đạo Da Tô khỏi bị đạo Hồi lấn áp.


      Càng thắng, họ càng  phục  lời
tiên tri của Mahomet: "Thiên đường ở trước mặt, Địa ngục ở sau lưng"
là đúng. Họ tiến tới đâu chũng thấy những cảnh rực rỡ, những đời sống vi
tươi y như cảnh thiên đàng tả trong Thánh kinh của họ. Trong Thánh kinh
cũng có đoạn này đấy ư?


"Sau khi
giải khát ở hồ nước của đấng Tiên tri, Tín đồ sẽ vô Thiên Đàng và được
hưởng những của cải mênh mông. Mùa xuân ở đó bất tận, vườn tược xanh tốt
quanh năm, đủ các thứ suối róc rách dưới tàn cây: suối nước thơm tho, suối
rượu, suối sữa, suối mật. Cây thì cao, bóng thì mát mà có đủ các thứ
trái.  -ba trăm món ăn mỗi bữa- ăn không chán... !!! Thượng Đế ban lệnh "Các
con ăn uống cho thỏa thuê đi để bù công khó nhọc ở dưới Trần . Bảy mươi
hai nàng tiên mắt đen lánh, xiêm y rực rỡ, y như những ngọc trai trong vỏ
xa cừ, sẽ múa  hát tưng bừng để tăng vui cho bữa tiệc
".


 





     Những  lời hứa hẹn đó làm cho
dân A Rập đói khát trong sa mạc mơ ước bao lâu nay thì bây giờ đây, nhờ
chiến thắng, nhờ hy sinh cho Chúa, họ được Chúa cho hưởng đủ: này là
những suối mật, ở Ai Cập những suối sữa ở Y Pha Nho, những  lê, cam ợ Ba
Tư và hàng  vạn hàng ức nàng tiên ở Bagdad, ở Caire, ở Bysance, ở Crète, ở
Cordoue. Nhìn lại sau lưng họ thì bán đảo A
Rập toàn đá với cát, quả thực là một cảnh địa ngục ! Vạn vạn tuế Mahomet !


       Một khi đã được lên Thiên đàng
thì không còn ai muốn trở lại cảnh Địa ngục nữa, cho nên dân A Rập định cư
ngay ở những thuộc địa của họ, không nhắc tới những tên

Yemen
, Nedjid, nơi chôn nhau cắt rốn của họ nữa. Và bãi sa mạc mênh
mông yên tĩnh trở lại, gần như bất động, gần như chết hẳn.  Chỉ còn ít
đoàn du mục đói rách lang thang dưới ánh nắng thiêu người với mấy con lạc
đà ốm yếu, đi tìm ít ngụm nước, ít trái chà là chung   quanh những giếng
nước.


       Sống xa hoa thì phải suy. Bắt
đầu từ thế kỷ thứ XI, những thuộc địa của họ mạnh lên, chống cự lại họ.
Trước hết là người franc chiếm miền bắc bán đảo: Syrie, Palestine,
Transjordanie. Rồi tới những đoàn Thập tự quân tiến tới Médine (cuối thế
kỷ XII). Qua thế kỷ sau, những đoàn kỵ sĩ  Mông cổ, dưới sự chỉ huy của



Gengis Khan
,
Tamerlan, xâm nhập Anatolie, tàn phá Smyrne, Alep, Damas. Sau cùng người
Thổ chiếm hết những tỉnh ở bờ biển, dồn họ vào sa mạc, bắt họ phải phục
tòng, và dân tộc A Rập trở lại tình trạng cũ, trước khi Mahomet ra đời.





Xứ A Rập sau 1918


       Cuối thế kỷ XII, một vị anh
hùng A Rập, Abdul Wahab theo đường lối của Mohamet, dùng đúng chính sách
của Mahomet -nghĩa là mượn sức của tôn giáo và của binh sĩ muốn gây lại
thời oanh liệt cũ, thống nhất được xứ Nedjd và Hasa. Qua thế kỷ sau, Seoud
chiếm thêm được Hedjaz, vô Thánh địa Mecque, nhưng khi Déoud tử trân, các
con bất tài, bị Thổ diệt hết.


    
Dân A Rập vẫy vùng được một thời rồi lại nép mình dưới chân Thổ, lại thiêm
thiếp ngủ dưới ánh nằng gay gắt, trong  một cảnh yên tĩnh, chỉ thỉnh
thoảng giật mình vì một tiếng súng nổ hoặc tiếng vó ngựa của một tên cướp
đường ban ngày.


vietsciences

 




















Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2008

190 BÍ ẨN BÀN MÔN ĐIẾM







New Page 1






BÍ ẨN BÀN MÔN ĐIẾM



(VIDEO CUỐI TRANG)


tka23


    Nằm giữa biên giới hai
miền Triều Tiên, Bàn Môn Điếm là nơi đầy bí ẩn
.



 



  


 


    Ngoài giới quân sự, chỉ khách du lịch nước ngoài được
phép đến thăm. Dưới đây là hình ảnh về địa điểm nổi tiếng này, do phóng viên
BBC chụp.


























































 


      


img110/9063/b1mg1.jpg


Miền bắc Triều Tiên luôn là
điều bí ẩn đối với thế giới. Du khách không dễ gì xin được
chiếu khán cho nên cách đơn giản nhất là mua tour của Hàn Quốc để
vào vùng phi quân sự nhìn sang,
thế nhưng quí vị phải
tuân thủ rất nhiều qui định.

 


     img155/4255/b2bn4.jpg


 Đoàn du khách được đánh
số cẩn thận và phải ngồi đúng số ghế trên chiếc xe bus đặc
biệt. Dẫn đường là một xe Liên hiệp quốc và theo đoàn là một
lính Mỹ,
có toàn quyền hủy chuyến đi nếu thấy thái độ
của du khách không phù hợp.

 


    


img110/3307/b3pq8.jpg


Chỗ nào anh ta cho phép chụp ảnh mới được
chụp, và ngay cả nơi cho phép chụp ảnh cũng được khoanh vùng
như ở đây, quí vị không được vượt qua lằn vàng nếu không muốn
bị đuổi khỏi đoàn. Nên nhớ đây là vùng quân
sự và tình trạng là chiến tranh.

 


    img110/1982/b4fs3.jpg


 Các làn đường vẫn dành quyền ưu tiên cho
các đoàn xe quân sự chứ không phải du khách. Hàn Quốc vẫn áp
dụng chế độ tổng động viên bắt buộc, thanh niên tới tuổi phải
vào lính và 6 tháng mới được nghỉ phép một lần.

 


    img110/8711/b6po1.jpg


 Những người lính Hàn
Quốc làm nhiệm vụ ở sát đường biên giới phải được tuyển mộ
rất kỹ, ngoài chiều cao, sức khỏe, đai đen Taekwondo còn cả lý
lịch nữa
, trong gia đình không có ai có quan hệ gì với
miền bắc.

 


   


img55/1729/b7lr3.jpg


Anh ta chỉ có tay không để
tự vệ và cách đó vài chục mét là trạm gác của CHDCND Triều
Tiên
. Vùng này nhiều lần có nổ súng và có những vụ
điệp viên xâm nhập.





     Lính Hàn Quốc đứng
theo thế thủ Taekwondo, một nửa nấp sau vách nhà để tránh bị
bắn lén
, mắt đeo kính đen để tránh tâm lý quen biết với
đối phương chỉ cách đó vài mét. Phía biên giới CHDCND Triều Tiên
thường bỏ ngỏ, hiếm thấy có người đứng đối mặt.




 
       Nhà
ga Thống Nhất đã xây xong, cửa đi Bình Nhưỡng cũng đã sẵn, nhưng
chỗ bán vé chỉ mới dành để đóng dấu xuất cảnh cho du khách
nước ngoài mà thôi, và đóng dấu xong lại phải lên xe trở về
Seoul
vì ai mở cửa cho mà nhập cảnh vào miền bắc.

 


    


img55/8194/b11hm2.jpg


     Công dân Hàn Quốc
không được vào vùng DMZ nên họ chỉ biết đến tường rào treo
khấn nguyện thư, thốt lên những lời ta thán, thương nhớ người
thân đang còn sống ở miền Bắc. Tiếng nhạc trên cầu khiến du
khách phải nhỏ lệ.



XEM VIDEO


 



bbc







189 KIM TU THAP MAYA MEXICO







New Page 1





Kim tự tháp Maya



được thiết kế để “hót”
như chim?




(VIDEO CUỐI TRANG)


tka23





 








 
.


        Một số nhà nghiên cứu cho rằng, khi đứng vỗ tay
phía trước ngôi đền Kukulcan 1.100 tuổi trong
thành phố Maya cổ đại

Chichen Itza
, họ nghe thấy tiếng vọng từ kim tự tháp, y như tiếng chiêm
chiếp của loài chim đuôi seo linh thiêng trên vùng đất Trung Mỹ.


Kỹ sư âm học
David Lubman,

Westminster, California
(Mỹ) tin rằng, người Maya đã xây dựng các kim
tự tháp này sao cho chúng tạo ra những hiệu ứng âm thanh đặc biệt: khi vỗ tay
ở chân thang dẫn lên đền, nó sẽ tạo ra một tiếng dội bắt đầu với tiết tấu
thăng cao, rồi sau đó trầm xuống, giống như tiếng “chiếp” của loài chim đuôi
seo bản địa.





       Lubman phỏng đoán các bậc thang dẫn lên đền
Kukulcan (nằm ở bán đảo Yucatan, đông nam

Mexico
) đã được xây dựng theo những kích cỡ có chủ ý, nhằm tạo ra hiệu
ứng mô phỏng âm thanh nói trên.





 


     Những bậc phía dưới thì dốc và mặt bậc hẹp, không
thuận lợi cho việc leo lên, nhưng lại lý tưởng để cộng hưởng thành âm thanh
cao vút. Trong khi đó, các bậc phía trên hỗ trợ việc tạo ra âm trầm.


 


“Nếu có một cấu trúc với lối thiết kế như vậy, nó sẽ tạo
ra những tiếng chiêm chiếp y như của chim”, Lubman nói. Ông cũng ghi nhận được
hiệu ứng tương tự tại kim tự tháp Magician trong thành

Uxmal
cổ của người Maya, gần

Chichen Itza
.


 





Nghiên cứu được các nhà khoa học công bố tuần trước tại
cuộc họp của Hiệp hội Âm học Mỹ ở

Cancun, Mexico
.



xem video



kỳ quan


 



 





Thứ Năm, 29 tháng 5, 2008

188 VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH







New Page 1





KỲ QUAN 5


Vạn lý trường thành -


 'vô tiền khoáng hậu'


(VIDEO"pps" CUỐI TRANG)


tka23


 


VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH









 

.



              Truyền thuyết về "tường thành dài một vạn
dặm" nhiều vô số kể. Người ta cho rằng đây là công trình nhân tạo duy nhất có
thể nhìn thấy từ mặt trăng.


      Công trình này gợi lên ý tưởng về Trung Quốc như
một vùng đất huyền bí, rộng bao la và khép kín.


 


 


Về

quy
mô, Vạn lý trường thành không có đối thủ.
Trải dài khoảng 2.700 km theo một đường thẳng từ Shanhaiguan ở bờ biển phía
Đông thuộc Hồ Bắc đến Jiayuguan thuộc Gansu ở phía Tây,
nhưng chiều dài
thực sự, kể cả các đoạn thành gấp đôi, gấp ba và thậm chí gấp bốn cùng các
đường nhánh ở các đèo và các điểm chiến lược khác ít nhất cũng nhân chiều dài
của trường thành lên gấp đôi.




      Nếu tính cả những đoạn lúc đầu của trường thành,
chiều dài tổng cộng gần 10.000 km, lớn hơn chu vi trái đất 20%. Hiện còn
khoảng 20.000 tháp canh trên trường thành và 10.000 tháp canh hay truyền tin
riêng biệt khác, số gạch đá của trường thành có
thể xây dựng mười bức tường dày 1 m, cao 5 m vòng quanh trái đất
.





     Tuy nhiên, trong thực tế, Vạn lý trường thành là một
từ chung để gọi nhiều bức tường dài, xây dựng ở nhiều giai đoạn khác nhau
trong lịch sử Trung Quốc. Từ đầu, trường thành không khác gì hơn là một công
trình phòng thủ: đánh dấu ranh giới của nền văn minh. Đặc điểm Trung Hoa ở
trường thành cũng mang đặc điểm thành phố, trường thành đánh dấu một đơn vị
hành chính, tách biệt một nước Trung Hoa nông nghiệp, có tổ chức với tình
trạng man rợ, vô tổ chức của các bộ tộc du mục thảo nguyên.









 





Một góc nhìn về Vạn lý trường thành.




      Khi vị Hoàng đế đầu tiên thống nhất Trung Hoa năm
221 TCN, ông ra lệnh cho viên tướng Meng jian
phải nối liền và mở rộng một loạt các đoạn thành trước kia, do các nhà nước mà
ông xâm chiếm xây dựng để lập thành một tường chắn liên tục chống lại các bộ
tộc cướp phá ở vùng biên giới phía Bắc và Tây Bắc.





     Sự gian khổ và hy sinh trong việc xây dựng Vạn lý
trường thành đầu tiên này được đề cập đến rất nhiều trong thơ ca và truyền
thuyết. Hơn 300.000 người bị bắt lính kể cả binh lính, nông dân, quan chức bị
thất sủng, tù binh và học giả bất tuân mệnh lệnh “phần thư khanh nho” (đốt
sách giết kẻ sĩ).



   Làm việc ở những vùng núi non hay sa mạc, trong cái
nóng và lạnh cực độ, không đủ lương thực hay chỗ ở, người ta nói cứ xây dựng
mỗi mét thành là có một người phải bỏ mạng. Từ lâu, trường thành phản ánh sức
mạnh của Trung Hoa và thái độ của nước này đối với các bộ tộc du mục láng
giềng. Trong thời điểm cùng tồn tại hoà bình, người ta xao lãng và để cho
trường thành hư nát, lúc ấy các láng giềng của Trung Hoa hùng mạnh và thù địch,
nên mới xây dựng lại trường thành như một công trình phòng thủ đối phó với các
dân tộc có tài cưỡi ngựa điêu luyện ở vùng thảo nguyên.






   Nhà Hán (221 TCN), mở rộng trường thành đến mức dài
nhất xưa nay, xây dựng một thành vòng về phía Tây để bảo vệ hành lang Hexi ở
Gasnu, lối vào Con đường tơ lụa băng qua Trung Á.


    Nhiều tường thành sau này do các dân tộc không phải
Trung Hoa xây dựng, những người đã chiếm đóng miền Bắc Trung Hoa, muốn tự bảo
vệ mình trước các đợt xâm lược mới của kẻ xâm lăng.





    Hầu hết trường thành còn đến ngày nay đều được xây
dựng từ thời nhà Minh (1368-1644). Uốn lượn dọc theo đỉnh núi, chiều rộng chân
thành 6 m, cao khoảng 6 đến 8,7 m.  


    


    Đường đi dọc theo các thành luỹ, lót bằng bốn lớp
gạch, tường có lỗ châu mai xây cao để chống sườn ở cạnh ngoài, trong khi bờ
công sự xây ở cạnh trong, chiều rộng đủ cho năm ngựa chạy song song.Ở các đèo
và trong thung lũng, xây thêm tường thành phụ để làm công trình phòng thủ bổ
sung.





     Tháp canh, đặt cách khoảng 70 m, được xây bậc thang
bằng đá đi lên, có nhiều đường dốc đều đặn dẫn lên tường thành dùng cho ngựa.



XIN VÀO XEM VIDEO(PPS)


 



 


 


KY QUAN





Thứ Tư, 28 tháng 5, 2008

187 NỔI BUỒN HOA PHƯỢNG THANH THUÝ VIDEO














185 COLOSSEUM ĐẤU TRƯỜNG LA MÃ












Colosseum
- đấu trường La Mã



(XEM VIDEO CUỐI TRANG)


tka23







Công trình này bắt nguồn từ ý tưởng của


Hoàng đế Vespasian,
khởi công thời Titus vào năm 80 sau công nguyên và hoàn thành dưới đế
chế


Domitian.


Được đặt
trên vùng đất lầy nằm giữa đồi
Esquiline và Caelian,

Colosseum
là đấu trường cố định đầu tiên được xây dựng ở

Rome
.


Quy mô đồ sộ, vẻ hùng vĩ cũng như cách cấu tạo
thiết thực, hiệu quả trong việc tạo nên quang cảnh ấn tượng và kiểm soát
đám đông khổng lồ đã biến

Colosseum
thành một trong những công trình kiến trúc vĩ đại nhất
của La Mã cổ đại.













Nhìn từ bên ngoài.



Đấu trường là một cấu trúc hình ê-líp khổng lồ
với các dãy bậc thang dùng làm chỗ ngồi cho 50.000 khán giả, vòng quanh
một sân đấu trung tâm cũng hình ê-líp.





Phía dưới sàn gỗ của đấu trường là một hệ
thống phòng ốc và lối đi phức tạp dành cho các loài dã thú và những
trang thiết bị phục vụ cho các màn trình diễn đẫm máu. 80 bức tường tỏa
ra từ khu vực trung tâm, tạo ra các lối đi, bậc thang và các dãy ghế
ngồi.









Colosseum
được thiết kế để chứa 50.000 người, và có tới trên dưới
80 lối ra vào để khán giả có thể đến và đi một cách dễ dàng, nhanh chóng.






Tổng chiều cao công trình là khoảng 48,5 m,
tương đương với một tòa nhà 12-15 tầng.


Người La Mã được thưởng thức miễn phí những
trận đấu ở

Colosseum
. Đó được coi là phần thưởng dành cho những công dân đã
tham dự các bữa tiệc lớn của lớp người giàu có và nổi tiếng. Hoàng đế và
giới quý tộc yêu cầu tổ chức trận đấu khi cần thu hút sự chú ý của thần
dân. Dán mắt vào những màn trình diễn đẫm máu,
người La Mã sẽ lãng quên đi những vấn đề quan trọng hơn.





Ban đầu, cuộc chơi được tổ chức nhân danh
các vị thần, chúng phải tuân theo quy định pháp luật và được coi như một
nghi lễ tôn giáo. Về sau, khi tầng lớp thượng lưu thấy có thể thu lợi
nhuận từ những dòng máu đổ ra tại

Colosseum
, tính linh thiêng đã bị lãng quên. (theo
Greatbuildings
)


xin vào đây xem video
















kỳ quan


184 PHÁO ĐÀI MACHA PICCHU



PHÁO ĐÀI MACHU PICCHU


(VIDEO
CUỐI TRANG)









tka23

.











































































Một nhóm thám hiểm người Anh và

Peru
thông báo, đã phát hiện một phế tích lớn của người Inca, nằm
cách pháo đài danh tiếng

Machu Picchu
32 km về phía tây nam.
Ở đây, ẩn trong sương mù, trên sườn núi Andes
cao 3,9 km, là những bậc đất, những con đường, nghĩa địa, và hơn 100 ngôi
nhà đá bị bỏ hoang.



Một học giả người Anh, ông
Peter Frost, thành viên nhóm thám hiểm,
cho biết đã phát hiện khu phế tích này 3 năm trước đây, trong vùng
Vilcabamba lởm chởm đá, biệt lập với thế giới bên ngoài,
cách thủ đô Lima của

Peru
480 km về phía đông nam.






Tất cả những di vật còn lại là các bục giảng tôn
giáo, tháp chôn người và nhà chứa lương thực, cùng với rất nhiều mảnh gốm vỡ
- dấu tích của pháo đài Corihuayrachina.





Pháo đài này được xem là phát hiện lớn nhất về nền
văn minh Inca kể từ năm 1964 tới nay. Theo các nhà nghiên cứu, chiến binh
Inca đã lánh nạn ở dãy núi này trong cuộc nổi dậy cuối cùng chống lại ách
cai trị của người Tây Ban Nha.




Khu vực này chưa hề được khoa học biết tới. Lá cây
và dây leo bao phủ khắp các tòa tháp và những ngôi mộ âm u. Tuy nhiên, đây
vẫn chỉ là giai đoạn phám khá đầu tiên. Các nhà khoa học sẽ tiếp tục tìm
hiểu về cư dân của Corihuayrachina, chẳng hạn họ sống như thế nào và tại sao
họ lại chọn vùng đất không mến khách này để cư ngụ.





Giống như hầu hết các đền, điện thờ, lăng mộ trên
khắp quốc gia ở vùng núi Andes này, khu vực mới được phát hiện cũng hay bị
những kẻ phá mộ ở địa phương cướp bóc, và nay chỉ còn lại những mảnh gốm và
xương người. Nhưng khác với

Machu Picchu
- được tìm ra từ năm 1911 - vùng đất này không phải là
quê hương của tầng lớp quý tộc Inca.



Tại đây chỉ có vài chiếc móng bằng đá, cao 60-90
cm, là phần còn lại của cấu trúc cổ (được xây dựng cơ bản bằng gạch sống
hoặc gỗ).










Đồ gốm được khai quật tại khu vực
này.



Người Inca từng một thời sinh
sống tại dải đất rộng lớn ở Nam Mỹ, chạy dọc từ

Colombia
tới

Chile
. Nhưng vào năm 1533,

Francisco Pizarro
(cùng với băng đảng gồm 160 tay thợ săn kho báu
người Tây Ban Nha của ông ta), bằng súng thần công và ngựa, đã kết thúc thời
huy hoàng của đế chế này trong biển máu.


Một đoàn 50.000 người Inca chạy tới vùng núi
Vilcabamba xa xôi, tiếp tục cuộc chiến chống lại những kẻ xâm lược trong gần
40 năm sau đó.



Không chỉ có súng ống và bạo lực, người châu Âu
còn gieo rắc lên mảnh đất này những căn bệnh lạ như sởi, khiến đế chế Inca
thêm suy sụp.



Dân số của họ từ
khoảng 32 triệu người năm 1520 tụt xuống còn khoảng 5 triệu người vào năm
1548.


“Chúng tôi đang cố gắng chắp vá lại lịch sử của miền
đất, bằng những phát hiện ngày càng đáng kinh ngạc", Frost nói


xem video kỳ quan mới









KY QUAN





184 KỲ QUAN 2 PETRA THÀNH PHỐ HOA HỒNG ĐỎ










Petra - thành phố hoa
hồng đỏ


(VIDEO CUỐI TRANG)


tka23


Không hẳn là một thành phố, cũng không mang màu đỏ
của "chúa các loài hoa", chưa có thời gian dài lịch sử đáng kể, nhưng Petra
vẫn có một vị trí không tầm thường trong đời sống văn hoá.







Petra không có màu đỏ của hoa
hồng, không đủ yêu cầu của một thành phố, thậm chí có vẻ giống một nghĩa địa
công cộng tựa như bia kỷ niệm,
với những ngôi nhà làm bằng đất... nhưng
không khí thần bí nơi đây khiến nó có sức hấp dẫn không gì cưỡng nổi.







Thế kỷ 6 trước công nguyên, bộ lạc du mục
Nabateans khống chế khu vực kéo dài giữa Aqabah
và Biển Chết, ở miền đông sông Arabegan. Do khống chế đường thông mậu dịch
quan trọng, người Nabateans trở nên lớn mạnh, giàu có, trong đó Petra là di
sản của họ.






Quần thể bia mộ ở đây từng được người dân coi là nhà cửa,
nhưng giờ thì họ đã nhận thức được là những phần mộ.








Những ngôi mộ này được đục trong nham thạch, cao hơn mặt
nước biển gần 1.000 m. Có đồ án tinh tế trang nhã, cũng có đồ án với trang sức
nóc tường đầu hồi kiểu bậc thang đặc sắc thể hiện phong cách kiến trúc Ai Cập.
Trọng tâm kiến trúc đặt ở mặt chính, bên trong không hề có trang sức nào.












Thành phố cổ Petra.




Năm 106, Petra trở thành một bộ phận của đế quốc La
Mã, có tất cả những kiến trúc mà văn hóa cổ La Mã thường có như quảng trường,
nhà tắm công cộng, nhà hát... Nhưng đi theo sự hưng thịnh của thành cổ Balmira,
phương thức mậu dịch xảy ra biến hóa, Petra trở nên sa sút. Trong vài trăm năm,
nơi đây chỉ được dân bộ lạc bản địa biết tới


.


Năm 1812, Petra được phát hiện lại. Nhà thám hiểm Thụy Sĩ
John Bechat, người nói được tiếng Ảrập lưu loát, ăn mặc giống như người Hồi
giáo đã thuyết phục người hướng đạo bản địa với mong muốn có thể kính dâng
trước mộ một con sơn dương.






Người hướng đạo dẫn Bachat dọc theo Sikh - một khe
núi hẹp lún sâu trong nham thạch, con đường mà du khách ngày nay muốn tham
nhất định phải đi qua - đến trước một vật thể kiến trúc lạ lẫm. Tòa kiến trúc
này được gọi là "kho báu", mang hoàn toàn phong cách cổ điển.






Khe núi mở lộ ra một bên kho báu, hiện ra nhiều phần
mộ đào vào trong nham thạch. Những mộ này do sa thạch cấu thành, trộn lẫn với
rất nhiều màu sắc.





Có nhiều vật điêu khắc bị phơi trong gió, biến dạng
không nhận ra nổi. Nhiều chứng cớ về phương diện khảo cổ học chứng tỏ, Petra
ban đầu không phải là màu đỏ hoa hồng, cũng không phải màu hồng nhạt mà được
tô điểm bằng bùn xám, khác xa với những gì hiện tại.


xem video ky quan thế
giơi









KỲ QUAN