SAUDI ARABIA
TRÊN CÁT DƯỚI ĐÁ
tka23
Xứ
A Rập là môt bán đảo rộng 2,2 triệu cây số vuông, ba phía là biển, ở giữa
là một cao nguyên mênh mông trên cát dưới đá , cháy khô dưới ánh
nắng chang chang, đi hàng chục hàng trăm cây số mới gặp một giếng nước,
chung quanh có ít cây chà là và vài cái lều của bọn người du mục. Chỉ ở
bờ biển mới thấy ruộng rẫy. Hai miền phì nhiêu nhất là miền
Yemen ở phía Nam trên
cái mỏm, một bên là Hồng Hải (Mer Rouge), một bên là vịnh Aden, và miền
Syrie ở phía Bắc, trên bờ Địa Trung Hải. ân cư miền
Yemen rất đông đúc và
tăng lên rất mau, mà diện tích trồng trọt được thì có hạn, kỹ nghệ cùng
thương mãi tới dầu thế kỷ XX vẫn còn thấp kém nên miền đó luôn luôn bị nạn
nhân mãn.
Dân chúng
nếu vượt biển để qua miền Soudan thì gặp một xứ còn khô khan, hoang dã hơn
xứ A Rập nữa, sống không nổi; mà cũng không thể ngược theo bờ biển
Hồng Hải vì bị các dân tộc khác chận đường, nhất định không cho nhập cảnh,
nên họ phải dắt díu nhau di cư vào giữa bán đảo, tới miền Nedjd, miền
Quasim, miền Hamad để tìm cách sinh nhai.
Thành
thử trong hàng chục thế kỷ, có những luồng sóng người cuồn cuộn từ phương
Nam tiến lên phương Bắc, rồi phân tán trong sa mạc.
Nhưng sa mạc cháy khô làm sao
nuôi nổi những bọn người di cư mỗi ngày một đông đó? Họ phải chém giết lẫn
nhau đẻ sống, để chiếm một giếng nước, mươi gốc chà là và vài mẫu đồng cỏ.
Khắp thế giới không đâu đời sống cực khổ, gay go như ở đây.
Phải chiến đấu suốt đời, nên kẻ nào sống sót được
cũng là những chiến sĩ gan dạ, rất giỏi chịu cực, chỉ có một bầu nước và
một gói chà là, cũng đủ sống ba bốn ngày.
Nhưng khi người ta đã quen với
đời sống rồi thì người ta thấy yêu cái cảnh sa mạc hơn là người nông dân
yêu đồng ruộng. Một nhà tâm lý nào đó đã nhận xét đúng:
cảnh vật càng khô khan, đời sống càng cực khổ bao nhiêu, người ta càng
quyến luyến với quê hương bấy nhiêu.
Sống giữa sa mạc, người A Rập mê
những cảnh hoàng hôn rực rỡ, những cảnh cát bụi mịt trời, những cây chà là
xanh mướt bên bờ nước, nhất là sau những cơn nắng cháy da, mặt trời đã lặn,
gió mát hiu hiu, nằm trên cát, bên cạnh con lạc đà, gối đầu lên cánh tay
mà ngắm những ngôi sao lấp lánh trên nên trời thăm thẳm, hoặc nhièn bóng
trăng xanh dịu trải lên những động cát thoai thoải, trong một cảnh vô biên,
tịch mịch, thì lòng họ rung lên một điệu trầm trầm, họ nhớ lại những thời
oanh liệt, mà muốn ca ngợi công lao tổ tiên; hoặc
suy nghĩ về cái mênh mông huyền bí của vũ trụ, do đó họ thành một thi sĩ
hoặc một nhà tu hành.
Tóm lại, sa mạc đã tạo ra ba hạng
người:
hạng chiến sĩ coi cái chết nhẹ
như không;
hạng thi sĩ thích một cuộc đời
phóng túng;
và hạng tu sĩ kính ngưỡng Thượng
Đế, muốn hiểu cái bí mật của tương lai.
Người A Rập tự hào rằng đã tặng
cho nhân loại bốn vạn người tiên tri, đã để lại cho chúng ta vô số
những lời sấm truyền, mà lịch sử cũng chứng thực rằng ít gì cũng có
trên trăm nhà tiên tri sinh trên bãi sa mạc A Rập
Các nhà tiên tri:
1) Mahomet (570-632)
Nhà tiên tri nổi danh nhất, ảnh
hưởng lớn nhất đến dân tộc A Rập là Mahomet (570-632) (còn viết là
Mahound, Mohammed, Muhammad)
Chẳng những ông
là một nhà tiên tri mà còn là một thi sĩ, một chiến sĩ nữa. Ông ấp ủ tất
cả những hoài bão của dân tộc A Rập và có đủ tài, chí để thực hiện những
hoài bão đó, nên lập nên công nghiêp rất lớn cho nòi giống.
Hồi trẻ nghèo, ông phải làm hướng
đội cho các thương đôi qua sa mạc, đi khắp nơi này nơi khác, tiếp xúc với
mọi giống người. Ông thấy người A Rập chia rẽ, tranh giành nhau, cướp bóc
nhau mà đau lòng; nuôi cái mộng một ngày kia quy tụ họ được, thống nhất họ
được để tạo nên một quốc gia mạnh mẽ.
Năm 25 tuổi, ông vô núi Hira, gần
thành Mecque trầm tư trong một thời gian, như Đức Phật duới gốc Bồ đề, và
lần lần ánh sáng hiện ra trong óc ông. Ông nghĩ ra
rằng nếu muốn thống nhất dân tộc thì phải tạo cho họ một tôn giáo chung
-hồi đó người A Rập còn theo đạo đa thần, mỗi bộ lạc thờ một vị thần
riêng- mà muốn cho tôn giáo được mọi người theo thì phải dùng võ lực,
chiến thắng tất cả những bộ lạc khác.
Tìm được "chánh đạo" rồi, ông
hạ san , tự xưng là nhà tiên tri, đem truyền bá tư tưởng của mình trong số
người thân, rồi trong một nhóm môn đệ gồm ba, bốn chục người. Nhờ hồi
trước tiếp xúc với những nguời theo đạo Đa Tà và Do Thái, ông hiểu được ít
nhiều về hai đạo đó, phỏng theo mà lập nên đạo Hồi. Giáo điều căn bản tóm
tắt trong câu: " Chỉ có một đức Chúa duy nhất
là Allah và một tiên tri của ngài là Mahomet". Sống thì
phải phục tùng ý muốn của Chúa. Sự phục tùng ấy
gọi là islam, chết thì phải theo
sự phán quyết của Chúa. Đại loại những lời khuyên
răn các tín đồ tức là mulsuman,
cũng như các cấm điều trong các tôn giáo khác. Khác hẳn Đạo Phật là điều
này: Chiến tranh nào có mục đích truyền bá
"chính đạo" sẽ là thánh chiến. Bất kỳ ai, có những kẻ đui
và cụt tay đều phải nhập ngũ để chiến đấu vì Chúa.
Chỉ những kẻ điên, con nít và
đàn bà là được ở nhà, nhưng có bổn phận phải tố cáo, phải giết những kẻ
đào ngũ. Khẩu hiệu của tín đố là: "Thiên đàng
ở trước mặt, mà địa ngục ở sau lưng". Một lần đứng trước
môt nhóm đồ đệ khoảng bốn chục người, Mahomet tuyên bố:
- Từ nay ta sẽ sống và chết với các
ngươi, máu của ngươi là máu của ta, các người thua là ta thua, mà các
ngươi thắng là ta thắng.
Một người trong đám hỏi:
- Nhưng nếu chúng tôi bị giết vì ngài
thì được phần thưởng nào?
Mahomet đáp liền:
- Được lên Thiên Đàng.
Những cuộc đàm thoại như vậy
được tín đồ ghi chép lại Thánh kinh Coran, lời rất trau chuốt, hoa mỹ vì
Mahomet có tâm hồn thi sĩ. Ngoài những đoạn giảng về đức tin, kinh còn dạy
về khoa học, vệ sinh, luật pháp. Các sử
gia hiện nay phải nhận rằng thời Trung cổ, khắp thế giới không có bộ luật
nào đầy đủ chi tiết và thực tế như kinh Coran.
Khi
đã có một số tín đồ cảm tử theo, ông bắt đầu dùng tài cầm quân của lình để
đánh cướp các thương đội, gây lực lượng để xâm chiếm các bộ lạc, bắt họ
quy phục, theo đạo Hồi. Lần này ông chiếm được Médine, Mecque, và khi lâm
chung, hồi 62 tuổi, ông làm chủ toàn xứ A Rập. Quốc gia A Rập thành lập,
và từ đó mỗi ngày một mạnh.
Cái chết của Mohamet
2) Omar
Đế quốc A Rập thời toàn thịnh (750)
Sau Mahomet, Omar tiếp tục công việc xâm
lăng để truyền đạo, và tới thế kỷ thứ VIII thì đế quốc A Rập toàn thịnh,
rộng hơn cả đế quốc Hy lạp hồi xưa: phía đông lan qua Ba Tư, và một phần
Ấn Độ, phía tây gồm một vùng mênh mông từ Ai Cập tới bán đảo Y Pha Nho,
phía bắc giáp Caucase và Tây Bá Lợi Á, bao nhiêu đảo lớn nhỏ trong Địa
Trung Hải đều thuộc A Rập cả. Họ tới đâu thắng đấy, bắt kẻ địch phải lựa
một trong hai đường: hoặc thừa
nhận Chúa Allah của họ, và phục tùng họ, hoặc chết.
Họ dám
sai sứ qua Trung Hoa buộc hoàng đế Trung hoa theo đạo họ (khoảng 705-707)
nhưng vì xa xôi quá, họ không dám tiến quân. Mãi tới năm 732, họ sắp tới
sông Loire trên đất Gaule thì dân tộc Franc dưới sự chỉ huy của Charles
Martel, đánh cho đại bại ở gần
Poitiers. Trận đó dã
cứu châu Âu khỏi bị A Rập đô hộ, và cứu đạo Da Tô khỏi bị đạo Hồi lấn áp.
Càng thắng, họ càng phục lời
tiên tri của Mahomet: "Thiên đường ở trước mặt, Địa ngục ở sau lưng"
là đúng. Họ tiến tới đâu chũng thấy những cảnh rực rỡ, những đời sống vi
tươi y như cảnh thiên đàng tả trong Thánh kinh của họ. Trong Thánh kinh
cũng có đoạn này đấy ư?
"Sau khi
giải khát ở hồ nước của đấng Tiên tri, Tín đồ sẽ vô Thiên Đàng và được
hưởng những của cải mênh mông. Mùa xuân ở đó bất tận, vườn tược xanh tốt
quanh năm, đủ các thứ suối róc rách dưới tàn cây: suối nước thơm tho, suối
rượu, suối sữa, suối mật. Cây thì cao, bóng thì mát mà có đủ các thứ
trái. -ba trăm món ăn mỗi bữa- ăn không chán... !!! Thượng Đế ban lệnh "Các
con ăn uống cho thỏa thuê đi để bù công khó nhọc ở dưới Trần . Bảy mươi
hai nàng tiên mắt đen lánh, xiêm y rực rỡ, y như những ngọc trai trong vỏ
xa cừ, sẽ múa hát tưng bừng để tăng vui cho bữa tiệc".

Những lời hứa hẹn đó làm cho
dân A Rập đói khát trong sa mạc mơ ước bao lâu nay thì bây giờ đây, nhờ
chiến thắng, nhờ hy sinh cho Chúa, họ được Chúa cho hưởng đủ: này là
những suối mật, ở Ai Cập những suối sữa ở Y Pha Nho, những lê, cam ợ Ba
Tư và hàng vạn hàng ức nàng tiên ở Bagdad, ở Caire, ở Bysance, ở Crète, ở
Cordoue. Nhìn lại sau lưng họ thì bán đảo A
Rập toàn đá với cát, quả thực là một cảnh địa ngục ! Vạn vạn tuế Mahomet !
Một khi đã được lên Thiên đàng
thì không còn ai muốn trở lại cảnh Địa ngục nữa, cho nên dân A Rập định cư
ngay ở những thuộc địa của họ, không nhắc tới những tên
Yemen, Nedjid, nơi chôn nhau cắt rốn của họ nữa. Và bãi sa mạc mênh
mông yên tĩnh trở lại, gần như bất động, gần như chết hẳn. Chỉ còn ít
đoàn du mục đói rách lang thang dưới ánh nắng thiêu người với mấy con lạc
đà ốm yếu, đi tìm ít ngụm nước, ít trái chà là chung quanh những giếng
nước.
Sống xa hoa thì phải suy. Bắt
đầu từ thế kỷ thứ XI, những thuộc địa của họ mạnh lên, chống cự lại họ.
Trước hết là người franc chiếm miền bắc bán đảo: Syrie, Palestine,
Transjordanie. Rồi tới những đoàn Thập tự quân tiến tới Médine (cuối thế
kỷ XII). Qua thế kỷ sau, những đoàn kỵ sĩ Mông cổ, dưới sự chỉ huy của
Gengis Khan,
Tamerlan, xâm nhập Anatolie, tàn phá Smyrne, Alep, Damas. Sau cùng người
Thổ chiếm hết những tỉnh ở bờ biển, dồn họ vào sa mạc, bắt họ phải phục
tòng, và dân tộc A Rập trở lại tình trạng cũ, trước khi Mahomet ra đời.
Xứ A Rập sau 1918
Cuối thế kỷ XII, một vị anh
hùng A Rập, Abdul Wahab theo đường lối của Mohamet, dùng đúng chính sách
của Mahomet -nghĩa là mượn sức của tôn giáo và của binh sĩ muốn gây lại
thời oanh liệt cũ, thống nhất được xứ Nedjd và Hasa. Qua thế kỷ sau, Seoud
chiếm thêm được Hedjaz, vô Thánh địa Mecque, nhưng khi Déoud tử trân, các
con bất tài, bị Thổ diệt hết.
Dân A Rập vẫy vùng được một thời rồi lại nép mình dưới chân Thổ, lại thiêm
thiếp ngủ dưới ánh nằng gay gắt, trong một cảnh yên tĩnh, chỉ thỉnh
thoảng giật mình vì một tiếng súng nổ hoặc tiếng vó ngựa của một tên cướp
đường ban ngày.
vietsciences