tka23
Cây quế Thiên Thai mọc nơi khe đá
Trầm hương Vạn Giả hương tỏa sơn lâm
Đôi lứa mình đây như quế với trầm
Trời xui gặp gỡ sắt cầm trăm năm.

Quế có nhiều loại mang tên La Tinh chung Cinnamomum, thuộc họ Long não Lauraceae. Trên thế giới, loại quế đứng đầu thị trường nhờ chất lượng của nó là C. zeylanicum Nees hay Blume mà ta thường gọi là quế quan, được trồng nhiều ở nước Sri Lanka (tên cũ Ceylan)
Nó cũng còn mang tên C. verum Presl. Ở Việt Nam cũng có nhưng ít, mọc rải rác ở vùng Bái Thượng (Thanh Hóa), Co Ba (Nghệ Tĩnh), dọc đường Nha Trang đi Ninh Hòa và ở các vùng ẩm ướt Côn Đảo, Bà Rịa, Tây Ninh.
Đứng sau cây nầy là cây quế Trung Quốc C. cassia Blume hay Presl hay Nees et Berth (người Pháp gọi canelle de Chine) tức quế nhục, quế đơn, quế bì, ngọc thụ của ta, rou gui của người Tàu. Nó được trồng ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và mọc rải rác ở Việt Nam.
Cây quế mọc hoang và được trồng nhiều khắp vùng rừng núi nước ta, đặc biệt dọc dãy Trường Sơn, từ bắc Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh tới Quảng Nam, Quảng Ngãi là cây quế thanh, quế quỳ C. lourerii Nees (người Pháp có tên canelle d’Annam hay canelle royale) (*). Cây quế nầy ở nước ta dường như được thưởng thức hơn mấy cây quế kia
Lên non đón gió tìm trầm,
Đốt lò hương xạ em lầm quế thanh.
Trong sách Cây cỏ Việt Nam, Gs Phạm Hoàng Hộ (**) kê hơn 20 cây quế, trong số ấy thấy được khảo cứu các cây quế rành, quế trèn hay quế lá hẹp C. burmannii, quế lá tà C. bejolghota, quế bạc C. mairei, quế Cambốt C. cambodianum.

Quế quan hay quế Sri Lanka C. zeylanicum là một loài cây cao 20-25m, có cành non hình bốn cạnh, lá mọc đối, dài, cứng, hình trái xoan hay thuôn, nhẵn bóng, hoa màu trắng vàng nhạt, quả mọng hình trứng thuôn. Nó được trồng bằng cách chiết cành, hoặc đào cây non mọc hoang trong rừng về nhưng chủ yếu vẫn là gieo hạt, sau 4 năm có thể tiến hành thu hoạch. Năm 1972, Đức nghiên cứu tính chất sinh hóa học và sức bền của gỗ, đặc biệt về cellulose và lignium (3). Thành phần hóa học của cây đã được khảo cứu nhiều chục năm nay, đăc biệt phát hiện cinnamaldehyd và linalool, eugenol, benzyl benzoat ở vỏ, terpineol ở rễ, nhưng chỉ gần đây nhờ kết hợp sắc ký khí và phối ký (GC/MS) mới biết được rõ hơn cấu chất dễ bốc hơi của tinh dầu. (E)-cinnamaldehyd có nhiều nhất ở cành cùng a-phellandren và limonen. Nó xuất hiện dưới dạng acetat cùng với neryl acetat và b-caryophyllen ở cuống hoa. (Z)-cinnamaldehyd acetat thì được tìm ra ở nụ và hoa cùng với a-humulen, d-cadinen, humulen oxyd, a-muurolol, a-cadinol. Còn trái cây thì chứa đựng nhiều linalool bên cạnh a- và b-pinen, b-caryophyllen, d-cadinen, a-muurolol. Hóa chất trong tinh dầu chiết xuất từ lá cây thay đổi với nơi cây mọc : a-ylangen, methyl và ethyl cinnamat ở Sri Lanka, eugenol và benzyl benzoat ở Ấn Độ, a-pinen, a-phellandren, p-cymen, b-carophyllen, benzyl, cinnamyl và eugenyl acetat ở Trung Hoa. Ở Brazyl, tinh dầu lá cây chứa đựng (%) 58,7-55,1 eugenol, 29,6-38,5 safrol và dầu vỏ cây 54,7-58,4 cinnamaldehyd.
Về mặt dược liệu, quế Sri Lanka là một cây có tính chất sát trùng (5), rất có hiệu quả chống những trùng Gram-âm và Gram-dương với 200 và 500 ppm (12).
Vỏ cây chống nấm mạnh hơn lá cây (5). Tinh dầu cây có tác dụng khử nấm, đặc biệt nấm da Tinh dầu cây vừa sát trùng (10) vừa chống những nấm trong các bao dự trữ ngũ cốc, làm cho gạo có phần ngon hơn (7), vì vậy nó đã được dùng làm gia vị và trong mỹ phẩm (4,14).

Tinh dầu còn có tính chất chống đau (4), chống oxy hóa (15) với hiệu quả 55,94 và 66,9 % khi dùng nồng độ 100 và 200 ppm (11). Bên ta, quế và tinh dầu quế là những vị thuốc kích thích tiêu hóa, hô hấp và tuần hoàn.
Quế có tác dụng làm co mạch, làm tăng bài tiết, tăng co bóp tử cung, tăng nhu động ruột. Người ta dùng quế dưới hình thức rượu quế, xi rô hay rượu cất.
Quế đơn, quế bì hay quế Trung Quốc C. cassia là một loài cây có kích thước trung bình 12-17 m, lá mọc so le, dài và cứng, cuống to, hoa mọc thành chùy ở kẽ những lá phía trên, quả hình trứng, thuôn, phía dưới có đài tồn tại hoặc nguyên hoặc hơi chia thùy (ĐTL).
Quế thanh, quế quỳ hay quế Thanh Hóa C. loureirii là loài cây cao 12-20m, cành mọc có bốn cánh, dẹt, nhẵn, lá hơi hình trứng đầu hẹp lại, hơi nhọn, hoa màu trắng mọc thành chùy ở kẽ lá hay đầu cành, quả hạch hình trứng, lúc đầu xanh lục, khi chín ngả màu nâu tím, mặt quả bóng (*).
Như quế quan, trồng quế thanh có ba cách : gieo hạt, chiết cành (quế mỏng, kém giá trị) hay bới cây hoang về. Sau 5 năm, có thể bắt đầu thu hoạch nhưng theo kinh nghiệm, cây quế càng lâu năm (20-30 năm hay lâu hơn) càng tốt.
Lúc trước bên ta quế thanh được xếp thành 4 hạng :
quế phiến thuộc hạng tốt nhất,
thứ đến quế tâm thẻ tương đối nhỏ hơn,,
sau là quế bao tức quế vụn và
sau cùng quế ngọn là vỏ các cành nhỏ. Vệc bóc vỏ quế vào các tháng 4-5 và 9-10, lúc quế lắm nhựa, dễ bóc, tránh bóc sót lòng bị coi là kém giá trị.
Phần vỏ lấy từ cách mặt đất 0,20-0,40 cm đến 1,20 m gọi là quế hạ căn coi là kém.
Từ 1,20 m trở lên đến chỗ quế chia cành thứ nhất gọi là quế thượng châu được coi là quế tốt nhất. Vỏ bóc ở những cành quế to gọi là quế thượng biểu.
Vỏ bóc ở cành nhỏ gọi là quế chi. Một cây quế trung bình cho 30 kg quế tốt và 10 kg quế vừa.
Quế hái xong phải đem ủ. Nếu ủ không tốt, quế cũng mất giá trị. Quế được cho ngâm nước một ngày, rửa sạch, để khô, cho vào sọt với lá chuối khô, đậy kỹ, buộc chặt. Mùa nóng ủ 3 ngày, mùa lạnh 7 ngày. Lúc hơi nước bốc ở quế lên ướt là lúc quế vừa chín. Quế được lấy ra, lại đem ngâm nước 1 giờ rồi cho ép giữa phên nứa cho đến khô. Từ khi ủ cho đến khi được quế thường phải 15-16 ngày (mùa nóng) đến 1 tháng (mùa lạnh), có khi 2 tháng tùy theo cây to, nhỏ. Sau đó quế được quấn vải, cho vào ống kẽm hay hòm gỗ lót kẽm, dưới có mật ong để giữ độ ẩm vừa, như vậy mới khỏi khô dầu, bảo vệ được hương vị.
Quế thanh nằm trong số các cây thuốc có tính chất chống u khối (30). Theo tài liệu cổ, quế có vị cay, ngọt, tính đại nhiệt, hơi có độc, vào hai kinh can và thận.
Có tác dụng bổ mệnh môn tướng hỏa, trị cố lãnh trầm hàn, dùng chữa chân tay co quắp, lưng gối tê mỏi, bụng quặn đau, kinh nguyệt bế, tiểu tiện bất lợi, trên nóng dưới lạnh, ung thư. Người âm hư dương thịnh, phụ nữ có thai không dùng được.
Đông y coi quế là một vị thuốc bổ, có nhiều công dụng, có khi chữa cả đau mắt, hoi hen, bồi bổ cho phụ nữ sau sinh nở, bệnh đau bung đi tả nguy hiểm đến tính mệnh. Tuy nhiên cần thận trọng trong việc dùng quế (*).

Quế với trầm là hai tiên nữ trong rừng sâu. Người xưa đã không lầm khi ví công chúa Huyền Trân với cây quế. Trong cuộc đời long đong, chắc nàng đã hơn một lần khóc thầm nơi vương triều đất khách hay trong chốn tĩnh mịch chùa chiền.
Cuối thế kỷ 18, nhà ngoại giao Hi Doãn Ngô Thời Nhiệm hình dung những giọt mắt u sầu của nàng đã hóa thành tiếng mưa đêm mùa xuân trên cành mai cũng là cây quý
Huyền Trân sái tận u sầu lệ
Hóa tác xuân mai dạ vũ thanh.
Dươc liệu
VO QUANG YẾN